TT.Thích Tâm Hạnh
1.DẪN NHẬP
Là giả mà tưởng thật, chấp vọng làm chân, cho nên phải chịu các khổ não, đức Phật nói ‘nhận giặc làm con’. Biết rõ vọng chân, không nhầm lẫn, là đã có trí tuệ. Bỏ vọng về chân, là người tu đạo. Ngay khi vừa khởi, chuyển vọng niệm hướng bản tánh, liền thành vô tâm; là hành giả khéo dụng tâm. Tức vọng tức chân; chính là bậc có công phu đắc lực. Cho thấy, việc tu hành chủ yếu ‘Lìa vọng, trở lại tánh chân’. Nhận lại tánh chân, liền đó vọng tự dứt, cũng là một cách. Không theo vọng niệm, quay lại tánh chân; là một cách khác. Hành giả chưa thể một nhảy thẳng vào đất Như Lai thì cần phải biện rõ vọng chân để hạ thủ.
2. XÁC ĐỊNH VỌNG VÀ TRI VỌNG
a) Vọng là gì?
Chữ ‘Vọng’ nghĩa là giả, là chỉ cho tất cả những gì huyễn hóa, không thật; cụ thể không phải là tâm chân.
b) Vọng gồm những gì?
Vọng gồm tất cả những gì không phải chân thật là mình; là tất cả những gì bên ngoài, bị chúng ta nhận biết. Điển hình như thân tâm sanh diệt và muôn sự muôn vật, kể cả có một cái tâm để nhận biết, hoặc sở chứng, sở đắc... Bởi những thứ này bị chúng ta nhận biết, là ngoài mình, còn biến đổi sanh diệt cho nên chúng là huyễn vọng, chưa phải chân.
c) Tri vọng
Trong phạm vi bài này đề cập cụ thể đến việc hạ thủ công phu. Khi tọa thiền, ngồi yên lắng, không tiếp xúc cảnh duyên, thân đã bất động, hành giả biết rõ những niệm tưởng khởi lên trong đầu là huyễn hóa, không thật, không theo. Trong cuộc sống, trên mọi sinh hoạt, bên cạnh những niệm tưởng, chúng ta còn biết rõ thân, tâm sanh diệt, cảnh giới, vạn vật... đều huyễn hóa.
d) Tại sao phải biết vọng?
Thiền sư Khuê Phong Tông Mật nói: “Vọng tưởng tuy không, nhưng theo nó thì thành sự”. Bản chất thật của các pháp hữu vi (thân tâm sanh diệt và muôn sự muôn vật) là huyễn hóa, không thật. Nếu không biết rõ sự thật này, sẽ bị các vọng chi phối, khiến mê lầm, rồi tạo nghiệp, phải đi trong sanh tử chịu các khổ đau. Cái huyễn mà tưởng là chân, nhận lầm cái huyễn vọng làm mình nó sẽ phá tan gia sản vô giá trong ngôi nhà chân thật chính mình, cho nên đức Phật nói: “Nhận giặc làm con”.
e) Tại sao chỉ biết vọng tưởng?
Vọng là tất cả những gì thuộc về pháp hữu vi, còn bị vô thường biến đổi sanh diệt; nó rỗng tuếch, không thật. Nhưng tại sao khi nói đến pháp Tri vọng, phần đông nhiều người nghĩ ngay đến phương diện chỉ biết những niệm tưởng trong đầu (tâm sanh diệt) là vọng tưởng, không theo?
Nếu không có tâm niệm thì tất cả mọi thứ còn lại trở nên vô nghĩa, không có giá trị chi phối. Như thế, chúng ta cũng không cần phải tu hành. Mọi thứ huyễn vọng tuy nhiều, nhưng tất cả đều từ tâm niệm mà nhận biết hoặc tạo tác nên. Do đó, chỉ cần thấy rõ tâm niệm là huyễn hóa, không thật thì tất cả không còn giá trị chi phối. Và thấy mọi thứ bên ngoài là không thật cũng để dừng lại tâm niệm huyễn vọng này.
3. TÍNH TIÊU BIỂU, ĐẶC TRƯNG CỦA PHÁP TRI VỌNG
Khi chưa chứng ngộ, chưa thành Tổ, thành Phật thì ai cũng có vọng tưởng (những niệm tưởng sanh khởi trong đầu). Nếu không khéo tu hành thì chúng ta đang sống trên vọng tưởng, bởi nó đang có, chưa lặng. Nhưng vọng tưởng là hiện thân của nhân duyên đau khổ. Trước mắt, niệm tưởng trong đầu càng nhiều, sẽ khiến cho con người trở nên căng thẳng, tạo thành áp lực, mệt mỏi. Sâu xa hơn, chính những niệm tưởng (ý nghiệp) này xui khiến chúng sanh tạo nghiệp, để rồi phải theo nghiệp đi trong sanh tử chịu các khổ đau. Do vậy, là người tu hành, ai cũng phải hàng phục cho bằng được các niệm tưởng này. Tu bất kỳ pháp môn nào cũng phải lắng cho được vọng tưởng mới được tự tại giải thoát. Dù cho nhận thẳng chân tâm thì các vọng tự lặng, cũng là một phương pháp hàng phục vọng tâm này. Đây chính là tính tiêu biểu, là đặc trưng của pháp Tri vọng (Biết vọng không theo).
4. KHÁI QUÁT SƠ LƯỢC PHÁP TRI VỌNG
Tri vọng là biết vọng không theo. Cụ thể ở đây nói thẳng đến việc dụng tâm, thấy rõ tất cả những tâm niệm trong đầu khởi lên đều là bóng dáng của tiền trần, nó có nhiều thứ đắp đổi thay nhau khởi diệt liên tục, tất cả đều huyễn hóa, không thật, hành giả không theo. Để dễ dàng nhận hiểu, áp dụng vào công phu, Hòa thượng Tông chủ Thiền phái Trúc Lâm hiện nay chia ra làm hai giai đoạn để hành giả dụng công; đó là ‘Tướng tri vọng’ và ‘Tánh tri vọng’.
a) Tướng tri vọng (khái quát)
Phương pháp này áp dụng cho những vị chưa thuần thục. Sau khi đã thực hành thành thục các phương pháp bổ trợ điều thân và điều tức, hành giả tiến lên pháp Tri vọng. Hành giả ngồi yên, tỉnh giác, nếu có niệm tưởng khởi lên thì biết nó là huyễn hóa, không theo.
b) Tánh tri vọng (khái quát)
Lúc này công phu tu tập thiền đã thuần thục, hành giả ngồi yên, tâm lắng lặng, không khởi, nhưng tự sáng biết rõ ràng. Hành giả thấy rõ chơn và vọng đều từ một thể của tự tánh biến hiện. Như sóng và nước tuy khác, nhưng cả hai đều đồng một tánh ướt. Ngay khi đang còn vọng niệm, không biết theo hay biết về theo đuôi của nó, cũng không thèm nghĩ là để mặc kệ hay khởi thêm gì; chỉ là khéo thầm nhận thẳng tự tánh sáng biết vô tướng. Dù chưa ngộ đạo, nhưng khi lực dụng đủ lớn thì các vọng tự mất giá trị chi phối, tâm tự an lặng. Tất cả các vọng tuy còn, nhưng đều trở nên yếu ớt và lặng trong. Thân tâm lúc này an lạc đến diệu kỳ.
5. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM LIÊN QUAN ĐẾN PHÁP TRI VỌNG
a) Sự khác nhau giữa tướng tri vọng và tánh tri vọng
Tướng tri vọng và tánh tri vọng khác nhau ở những điểm căn bản nào?
Tướng tri vọng áp dụng cho những vị thực tập thiền chưa thuần thục. Ở giai đoạn này, hành giả đang còn trong quá trình ‘Thực tập hay thực hành pháp tu’.
Tánh tri vọng là áp dụng cho hành giả thực tập thiền đã thuần thục. Lúc này, công phu chỉ là ‘Ngay vọng, khéo thầm nhận lại tánh chân’. Ví như sóng và nước tuy là hai trạng thái khác nhau, nhưng tánh ướt của nó thì không hai, không khác.
Điểm khác nhau căn bản ở đây là hành giả thực hành thiền đã thuần thục và chưa thuần. Tức là nhấn mạnh đến việc công phu đã thuần thục hay chưa thuần thục, chứ không luận về thời gian là đã tu lâu hay mới vào tu.
b) Vọng giác và trí tuệ
Biết vọng thế nào thì “Biết vọng vẫn còn là vọng giác”? Và biết vọng thế nào thì “Ngay biết là trí tuệ”?
Luận Tọa Thiền, Thiền sư Đại Giác nói: “Thấy sắc, nghe thanh, ngửi hương, cảm xúc, biết pháp là đức dụng của sáu căn”. Cho thấy, ngay thấy nghe biết rõ ràng mà không phân biệt, đó là đức dụng của sáu căn hiển nhiên như vậy, chưa có vọng và chơn, kiến văn giác tri không có lỗi. Ngài nói tiếp: “Nương cảnh giới này mà phân thiện ác, biện tà chánh là trí tuệ”. Như vậy, ngay khi thấy nghe hiểu biết, nhận rõ chân ngụy rành rẽ mà không cần phân biệt, đó là trí tuệ. Nhưng nếu: “Do nhơn nơi đức dụng sáu căn mà lập nhân ngã, sinh thương ghét thảy đều là vọng kiến”. Tức là không còn ở nguyên thể ban đầu mà đã phân hai, có năng và sở, ta và người, từ đó bản ngã được lập nên, mới rơi vào vọng kiến và bắt đầu mê muội, sanh ra các lỗi lầm.
Tóm lại, ngay khi lặng sáng, không động; biết rõ vọng và chân rõ ràng mà không cần phân biệt thì đó là trí tuệ. Một cách cụ thể, nếu hành giả khởi biết để biết vọng thì cái biết có tướng trạng ấy là vọng giác. Ngược lại, nếu không khởi mà tự sáng biết thì ngay biết là trí tuệ. Nếu cho rằng, cái biết vọng tưởng vẫn còn là vọng giác, thì ai nhận biết đó là vọng giác, nếu không phải là chân tâm đang sẵn đó? Hãy buông luôn đi thì tánh này liền đó hiển hiện, bặt nghi ngờ.
Nếu vẫn còn bảo không phải là trí tuệ thì cái gì là trí tuệ chân thật, chỉ ra xem! Nếu còn có một thứ để đem ra chỉ được thì hãy buông luôn đi, đừng khởi, nhưng không mê thì ngay đó tâm tự sáng biết, chính là trí tuệ chân thật hiện tiền.
Khéo tu thì nhận thẳng. Chưa thể như thế thì hãy lột hết, buông sạch nhưng sáng rỡ, không một vết mê mờ, thẳng đó khéo nhận, liền xong.
c) Đã biết là huyễn vọng, nhưng vì sao vẫn còn bị các vọng chi phối?
Đứng ở đâu để biết vọng?
Khi nghe nói về vọng, chúng ta sẽ hiểu rõ vọng tưởng. Nhưng tâm hiểu biết ấy là có tướng, còn loạn động sanh diệt cho nên chính nó cũng là một loại vọng. Như vậy, dùng tâm vọng để hiểu về triết lý vọng thì quả thật chúng ta đang chìm trong nó, chưa thoát khỏi vọng, do đó còn bị các vọng chi phối. Nếu khéo lặng lại, tâm tự sáng biết mà không thèm khởi mới biết. Tâm lặng sáng ấy tự rõ biết các vọng, nhưng không động, không trôi vào vọng, mới thoát khỏi vọng, mới có diệu lực thắng được vọng tưởng, không bị các huyễn vọng chi phối.
Do chưa đủ tỉnh lực
Cần biết rõ sự thật, khi tâm khinh an, tỉnh lực sẽ mạnh thì các vọng tự yên chứ không thể do làm gì đó để được. Nếu quan tâm vọng còn nhiều hay ít, còn bị chi phối hay không, hoặc làm gì đó để hết vọng thì tất cả chỉ vô nghĩa, vẫn còn bị vọng chi phối. Bởi tất cả những tâm niệm, việc làm và công phu như trên đều còn tạo tác, thuộc về vọng cho nên không thể thoát khỏi sự chi phối của chúng. Chỉ là khéo buông thư, bình thường để không tạo dấu vết trong tâm, nhưng giác sáng chứ không phải buông thả cho tâm lan man trôi nổi bồng bềnh; sẽ có lúc tâm tự khinh an (vui nhẹ, sâu lắng nhưng thênh thang). Sức giác sáng mạnh thì các vọng bỗng dưng tự nó mất giá trị chi phối. Lúc này, sự tu tập vô cùng nhẹ nhàng và an vui. Cho đến khi thời tiết nhân duyên chín muồi, tâm tánh bừng ngộ thì vọng tự dứt bặt.
Nói thêm, khi mới vào tu, thực hành pháp sổ tức (đếm hơi thở), hành giả không nên can thiệp, không làm gì trên vọng tưởng mà chỉ nên khéo dụng công làm sao cho thân tâm được thông suốt, nhẹ nhàng, khinh an. Năng lực này sẽ khiến cho vọng tưởng vô hại, giúp chúng ta làm chủ dễ dàng. Bên cạnh công phu tọa thiền, hằng ngày hành giả khéo điều hòa trong các sinh hoạt, tập thể dục và ăn uống điều độ, bớt tán loạn, sẽ giúp cho việc tu tập dễ dàng khinh an.
6. KHÁI QUÁT CĂN BẢN PHÁP HÀNH
Muốn đành lòng để dồn hết tâm lực vào việc hạ thủ công phu tu tập, hành giả cần nhận định cho thật rõ đường hướng tu hành để có tầm nhìn và xác định đích đến một cách rõ ràng, rành mạch.
a) Đích đến
Một cách ngắn gọn, thẳng thắn, tất cả chúng ta tu Phật, mục đích để thành Phật. Ngoài ra, không thành bất cứ gì khác. Muốn thành tựu quả vị vô sanh Phật đạo, không thể từ nhân sanh diệt mà phải bắt đầu bằng nhân vô sanh. Tánh mình vốn tự không sanh diệt, chính là nhân vô sanh. Như vậy, cái đích gần mà hành giả phải chạm đến là ngộ tánh. Tiếp theo, bảo nhậm, sống thẳng tự tánh là tu hành. Cho đến khi công viên quả mãn, Phật đạo tự thành tựu.
b) Lộ trình – Công phu
Con đường ngộ nhập tự tánh tựu trung có hai lối (nằm trong hai khả năng):
v Một là ngay đây trực ngộ, còn gọi là đốn ngộ.
Thiền sư đương cơ khai thị, hành giả thẳng đó trực ngộ tự tánh. Hoặc là hành giả thoạt nghe hay tình cờ đối diện một cơ duyên nào đó thoáng qua, bất ngờ ngộ nhập, không qua phương tiện thứ lớp.
v Hai là dụng công đúng pháp.
Nếu chưa thể thoạt nghe liền ngộ thì phải khéo léo dụng công đúng pháp. Cụ thể, chỉ là tự mình giác sáng, hướng tánh vô tướng giác sáng để tu tập, mới khế tự tánh. Khéo dụng tâm, vắng bặt mất hút dấu vết và không mê; có tướng hay không tướng đều không can thiệp, không khởi thêm gì. Theo thời gian, công phu thuần thục, sẽ đắc lực. Thời tiết nhân duyên chín muồi, tánh mình tự bừng ngộ.
Đây là căn bản, là sự thực của việc tu hành, là chánh tu. Ngoài ra, tất cả đều là phương tiện tạm thời để dẫn dắt chúng ta trở về con đường chánh tu vừa nêu trên. Cần nhận biết rõ ràng để xác định: ‘Mình đang cần gì, phải làm gì’, để không bị lẫn lộn.
c) Tóm lại
Trọng tâm dụng công tu tập như pháp gói gọn trong hai phạm trù: Không sai và phải đúng.
v Không sai
Hành giả khéo dụng công tu tập không để rơi vào các tướng. Điển hình như tướng của phương pháp, tướng dụng công, hoặc tướng của tâm (dấu vết của tâm hoặc sở đắc).
v Phải đúng
Bặt dấu vết – Mất hút tướng – Không mê thì tự tánh giác sáng hiện tiền, chứ không phải thấy có một tự tánh để thầm thầm chăn giữ nó. Sống như thế là đang dụng công tu hành, chứ không tìm một tướng tu hành nào khác. Dụng công như thế mới khế tự tánh vô sanh. Và có khế tự tánh thì mới có lúc tánh này tự bừng ngộ. Bởi ngộ chỉ là trả lại tánh mình chứ không phải ngộ ra một tánh thể như thế nào đó. Hành giả dụng công đúng pháp, khi thời tiết nhân duyên chín muồi, bất ngờ tánh này bừng vỡ, hiện bày ra, gọi là ngộ tánh.
Kinh Kim Cang, Phật dạy: Không rời tự tánh, tu các công đức lành, nhưng không rơi vào tướng thì sẽ thành Phật.
Đã ngộ thì sống bằng tự tánh ấy, các đức dụng tự thành tựu. Nếu hành giả chưa ngộ thì dụng công tu thiền như vừa nêu trên. Luôn trở lại tự tánh giác sáng, tức không rời tự tánh. Khéo tùy thuận các pháp, tùy duyên tu tập các công đức lành. Nhưng sống bằng tự tánh, không phân biệt ta người và việc làm, vượt thoát hai bên, sẽ vô tướng, tức không rơi vào các tướng. Dụng công như thế, đức Phật khẳng định chắc chắn sẽ thành tựu Phật đạo.
7. KHÉO DỤNG CÔNG
Khi tri vọng, cần thấy rõ ‘Mình đang tự sáng biết, chứ không phải biết về hay biết theo vọng tưởng’. Do đó, hành giả không can thiệp trên vọng. Ngay vọng, hành giả chỉ là tự giác sáng – Không theo, không làm thêm gì trên nó. Cụ thể, tùy vào căn cơ và trình độ mà có ba khả năng công phu thể nhận tự tánh:
Một là: Khéo ngay các vọng, nhận thẳng tự tánh giác sáng không nằm trong hai tướng động và tịnh thì các vọng tự trừ.
Hai là: Ngay khi đang vọng, khéo nhận ngay tánh lặng trong – Không can thiệp trên vọng.
Ba là: Khéo điều hòa thân tâm lặng – an – suốt thông, sẽ giúp hành giả làm chủ vọng tưởng. Cụ thể, vọng tưởng tự nhẹ nhàng, không chi phối gì.
Cách một là thẳng tắt, không qua các bước chuyển tiếp của tâm thanh tịnh thuần thanh tuyệt điểm, thẳng tiến, an toàn. Hai cách còn lại, hành giả sẽ phải đạt đến chỗ thuần tịnh rồi mới ngộ tánh. Do đó, cần phải khéo nhận biết để tiến đến rốt ráo, không dừng giữa đường được ít cho là đủ. Đây không phải lý thuyết mà là sự thật trong tâm, không phải do ai đặt định mà do sự khải phát dụng tâm ban đầu. Tu theo hướng nào, tâm hành giả tự thành tựu theo hướng tương ứng. Tùy vào căn cơ, tùy theo khả năng của từng người để khéo dụng tâm theo một trong ba khả năng trên, công phu sẽ đắc lực.
8.KẾT LUẬN
Tất cả chúng ta ai cũng vốn sẵn tánh chân, do thoáng bất giác nên rơi vào vọng động sanh diệt, tạo nghiệp, thọ sanh, chịu các thống khổ. Khi vào thân người, nhận thân tâm sanh diệt làm mình, cho các pháp là thật do đó bị trói buộc, chi phối, căng thẳng, khổ đau. Nguồn cơn bởi do mê lầm nhận vọng làm chân. Nếu biết bản chất muôn sự muôn vật vốn dĩ không có gì thật, liền đó trở lại tánh chân thì tất cả trở nên trong lặng, tự vượt thoát. Dù đã trót lỡ muôn kiếp mê, nhưng khéo ngay đây nhận lại tự tánh giác sáng thì tức khắc trở lại cội nguồn uyên nguyên sáng rỡ, tiêu sái tự tại. ‘Tri vọng nhận chơn’, xưa nay vẫn là con đường thiết thực cho những ai muốn tìm về cố hương muôn thuở chính mình.